TÍNH KHẢ CỰC HÓA
Quay lại: Diễn giải kiến thức Sách giáo khoa – Tạp chí KEM (tapchikem.com)
Lưu ý: (1) Tất cả các bài viết này đều được trích từ các kì báo của PROTON - Tạp chí Hóa học phổ thông, nếu trích dẫn, xin ghi nguồn đầy đủ; (2) Độc giả quan tâm đến PROTON, có thể tìm hiểu tại đây.
Độ mạnh của lực phân tán biến đổi trên khoảng rất rộng, đôi khi có ảnh hưởng tương đối đáng kể. Chất gồm các phân tử nhỏ như CH₄ thì tồn tại ở thể khí trong điều kiện thường, cho thấy lực phân tán rất yếu. Trong khi đó, các phân tử nặng hơn I₂ lại là chất rắn ở nhiệt độ thường, có nghĩa là lực phân tán khá mạnh, thậm chí còn mạnh hơn cả liên kết hydrogen trong nước! Độ mạnh của lực phân tán đối với một hoá chủng cụ thể phụ thuộc vào tính khả cực hoá - được định nghĩa là mức độ dễ bị biến dạng của đám mây electron. Tính khả cực hoá có xu hướng tăng khi tổng số electron tăng.
Hoá chủng có ít electron như CH₄ (mp -182 ᵒC, bp = -161 ᵒC) có 10 electron, không dễ bị cực hoá. Đó là lí do vì sao tương tác lưỡng cực cảm ứng-lưỡng cực cảm ứng (lực phân tán) giữa các phân tử methane rất yếu. Trong khi đó, pentane (CH₃CH₂CH₂CH₂CH₃) thì có đến 42 electron, dễ bị cực hoá hơn nhiều, khiến cho nó có nhiệt độ nóng chảy và nhiệt độ sôi cao hơn (mp -130 ᵒC, bp 36 ᵒC). Ngoài ra, iodine (I₂) có đến 106 electron thì thậm chí còn có nhiệt độ sôi và nóng chảy cao hơn (mp 114 ᵒC, bp 184 ᵒC).
Quay lại: Diễn giải kiến thức Sách giáo khoa – Tạp chí KEM (tapchikem.com)